Ngành công nghiệp dệt nhuộm ở nước ta có mạng lưới sản xuất rộng lớn với đa dạng về mặt hàng nên nhiều năm gần đây đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà. Theo báo cáo sơ bộ năm 2010 trong chiến lược phát triển kinh tế của ngành dệt nhuộm thì mục tiêu đặt ra là phải đạt trên 2 tỉ mét vải, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,5 – 4 tỉ USD, tạo ra khoảng 1 triệu việc làm. Tuy nhiên trước khi đạt được những con số này chúng ta cần phải giải quyết bài toán khó trước mắt đó là vấn đề xử lý nước thải của ngành dệt nhuộm một cách triệt để. Công nghệ dệt nhuộm sử dụng một lượng nước khá lớn phục vụ cho các công đoạn sản xuất đồng thời xả ra một lượng nước thải bình quân 12 – 300 m3/tấn vải. Trong đó, nguồn ô nhiễm chính là từ nước thải công đoạn dệt nhuộm và nấu tẩy. Nước thải giặt có pH: 9 – 12, hàm lượng chất hữu cơ cao (có thể lên đến 3000 mg/l), độ màu trên dưới 1000 Pt – Co, hàm lượng SS có thể bằng 2000 mg/l. Muốn biết rỏ hơn về từng lượng nước thải tính cho một đơn vị sản phẩm của một số mặt hàng trong ngành dệt nhuộm, bạn có thể xem lại bài viết: Nước thải dệt nhuộm có khả năng gây ô nhiễm như thế nào? Để biết rỏ hơn về lượng nước sử dụng và lượng nước thải ra ngoài của ngành dệt nhuộm lớn như thế nào?

Ô nhiễm môi trường do nước thải dệt nhuộm không đạt chuẩn xả thải ra nguồn tiếp nhận. Photo by internet
Vì sao cần kết hợp xử lý nước thải dệt nhuộm bằng phương pháp sinh học với phương pháp hóa lý?
Để trả lời cho câu hỏi này trước tiên chúng ta hãy đến với một vài dẫn chứng cụ thể dưới đây:
Trung tâm công nghệ xử lý môi trường, Bộ tư lệnh hoá học, 2003 đã công bố kết quả phân tích nước thải ở làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc (Hà Tây) như sau:
chỉ số BOD là 67 – 159mg/l; COD là 139 – 423mg/l; SS là 167 – 350mg/l, và kim loại nặng trong nước như Fe là 7,68 mg/l; Pb là 2,5 mg/l; Cr6+ là 0.08 mg/l.
Theo số liệu của Sở Tài nguyên Môi trường Thái Bình, hàng năm làng nghề Nam Cao sử dụng khoảng 60 tấn hóa chất các loại như ôxy già, nhớt thủy tinh, xà phòng, bồ tạt, Javen, thuốc nhuộm nấu tẩy và in nhuộm. Các thông số ô nhiễm môi trường ở Nam Cao cho thấy hàm lượng chất rắn lơ lửng trong nước thải cao hơn tiêu chuẩn cho phép 3,75 lần, hàm lượng BOD cao hơn tiêu chuẩn cho phép tới 4,24 lần, hàm lượng COD cao hơn tiêu chuẩn cho phép 3 lần.
Từ những con số trên đây ta thấy được rằng nước thải ngành dệt nhuộm rất đa dạng và phức tạp, nhu cầu nước cho công nghiệp dệt cũng rất lớn. Từ đó lượng nước thải từ những công nghệ này cũng rất nhiều, nếu như lượng nước thải này không được xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường ngoài sẽ ảnh hưởng đến nguồn tiếp nhận là rất lớn:
- Độ kiềm cao làm tăng pH của nước. Nếu pH > 9 sẽ gây độc hại đối với thủy tinh, gây ăn mòn các công trình thoát nước và hệ thống xử lý nước thải.
- Muối trung tính làm tăng hàm lượng tổng rắn. Lượng thải lớn gây tác hại đối với đời sống thủy sinh do làm tăng áp suất thẩm thấu, ảnh hưởng đến quá trình trao đổi của tế bào.
- Hồ tinh bột biến tính làm tăng BOD, COD của nguồn nước, gây tác hại đối với đời sống thủy sinh do làm giảm oxy hòa tan trong nguồn nước.
- Độ màu cao do lượng thuốc nhuộm dư đi vạo nước thải gây màu cho dòng tiếp nhận, ảnh hưởng tới quá trình quang hợp của các loài thủy sinh, ảnh hưởng xấu tới cảnh quan.
- Hàm lượng ô nhiễm các chất hữu cơ cao sẽ làm giảm oxy hòa tan trong nước ảnh hưởng tới sự sống của các loài thủy sinh.
Để xử lý loại nước thải nguy hại này, đa số các xí nghiệp đều sử dụng phương pháp hóa lý, như vậy sẽ tiêu tốn một lượng hóa chất rất lớn, không đáp ứng được yêu cầu kinh tế mà nước thải ra môi trường lại không được xử lý triệt để, làm cho giá thành xử lý 1m3 nước thải sẽ rất lớn mà hiệu quả không cao. Vì thế các xí nghiệp dệt nhuộm cần có phương pháp xứ lý nước thải dệt nhuộm bằng phương pháp sinh học ứng dụng vi sinh xử lý nước thải dệt nhuộm kết hợp với hóa lý, nhằm xử lý triệt để nước thải, đảm bảo lượng nước thải ra nguồn tiếp nhận đạt chỉ số yêu cầu của nhà nước và mang lại tính kinh tế trong quá trình xử lý.
Một số báo cáo và số liệu được tham khảo tại: Tailieumoitruong.org